Beyoncé

Beyoncé Giselle Knowles bộc lộ năng khiếu nghệ thuật từ khi còn rất nhỏ. Cô bắt đầu ca hát, nhảy múa cũng như biểu diễn tại nhiều cuộc thi tài năng từ khi lên bảy. Năm 1997, cô ký hợp đồng với hãng đĩa Columbia trong vai trò…

Beyoncé Giselle Knowles bộc lộ năng khiếu nghệ thuật từ khi còn rất nhỏ. Cô bắt đầu ca hát, nhảy múa cũng như biểu diễn tại nhiều cuộc thi tài năng từ khi lên bảy. Năm 1997, cô ký hợp đồng với hãng đĩa Columbia trong vai trò thành viên của nhóm nhạc Destiny’s Child. Năm 1998, nhóm phát hành album đầu tay “Destiny’s Child” gây chú ý với đĩa đơn “No, No, No”. Năm 1999, album tiếp theo “The Writing’s on the Wall” đưa tên tuổi của nhóm đi xa hơn với một loạt những bản thu thành công như “Bug a Boo”, “Jumpin’ Jumpin”, “Bills Bills, Bills” và đặc biệt là “Say My Name” – ca khúc đạt vị trí quan quân và giúp nhóm giành 2 giải Grammy và màn trình diễn nổi bật tại đêm trao giải. Beyoncé nhanh chóng trở thành thủ lĩnh của nhóm và luôn giữ vị trí trung tâm trong khi những thành viên khác liên tục được thay đổi. Cuối năm 2000, bản nhạc phim “Independent Women Pt.1” đạt vị trí số một và “Bootylicious” chiến thắng giải Grammy.

Sau khi xuất hiện trong “Asutin Powers in Goldmemer”, Knowles ra mắt bản nhạc phim solo đầu tiên với tựa đề “Work It Out”. Cô cũng làm việc với nhà sản xuất Jay  – Z trong “03 Bonnie & Clyde”. Album solo đầu tiên của Beyoncé “Dangerously in Love” ra đời vào tháng Sáu, 2003 và hạ cánh tại vị trí quán quân trên bảng xếp hạng. Giọng ca của cô được đánh giá là xuất sắc, cự kì nhuần nhuyễn và đầy nội lực. Ca khúc “Crazy in Love” giữ chặt vị trí quán quân trong vòng hai tháng. “Bad boy” hát cùng Sean Paul, “Me, Myself and I” và “Naughty Girl” giúp album tẩu tán hơn 4 triệu bản.

Tháng Mười Một, 2004, Beyoncé trở lại nhóm với album “Destiny Fullfilled”, album đạt vị trí thứ hai và mang đến những bản hit như “Lose My Breath” và “Soldier”, đây cũng có thể là album cuối cùng của Destiny’s Child.

Năm 2006, Beyoncé thủ vai chính cùng Steve Martin trong The Pink Panther nhưng vai diễn đem lại thành công bậc nhất cho cô tính đến thời điểm này là Dreamgirls. Beyoncé nhận được hai đề cử cho giải Quả Cầu Vàng (bộ phim sau đó đạt 2 giải Oscar) cùng ca khúc Listen làm say lòng giới mộ điệu. Lấy cảm hứng từ chính bộ phim, cô cho ra mắt “B’Day” với “Deja Vu”, “Ring the Alarm” và đặc biệt “Irreplaceable” đứng vị trí quán quân trong 10 tuần liên tiếp”. Tháng Tư, 2007, cô cho ra bản deluxe của album có thêm bản song ca “Beautiful Liar” với Shakira.

Tháng Tư, 2008, Beyoncé kết hôn cùng nhà sản xuất Jay – Z tại Manhattan.

Tháng Mười, 2008, cô phát hành album phòng thu thứ ba “I Am … Sasha Fierce”. Abum bán được 482.000 bản chỉ trong vòng đầu tiên và đạt vị trí quán quân. Với sức mạnh những đĩa đơn đình đám như “If I Were A Boy”, “Single Ladies (Put a Ring On It)”, “Halo” hay “Telephone” kết hợp cùng Lady Gaga , album đã bán được hơn 6 triệu bản trên toàn thế giới. Tour diễn của cô cũng đạt doanh thu trên 36 triệu đô.

Trong suốt sự nghiệp, Beyoncé đã giành tổng cộng 20 giải Grammy ở cả vị trí hát nhóm và solo, đứng thứ 3 sau Alison Krauss và Aretha Franklin. Cô cũng là người giành nhiều đề cử nhất với 52 lần.

Ngoài sân khấu, Beyoncé cũng dành thời gian quảng bá cho dòng thời trang “House of Dereon”.

Twitter: beyonce

Nhóm thực hiện

Kết nối với ELLE! Bắt kịp nhịp đập thời trang, làm đẹp và phong cách sống.

BÌNH LUẬN (0)