Nếu Dư Chấn biểu hiện mạnh mẽ nỗi trắc ẩn của một tâm hồn nghệ sĩ trước thảm họa động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004, thì Tường Biển, ngót nghét 20 năm sau, là những biểu đạt giàu xúc cảm từ cuộc sống thường nhật Vũng Tàu, nơi tác giả từ miền trung du Phú Thọ chọn định cư năm 1993; đến những miền, lãnh thổ tiếp giáp 3/4 diện tích nước của trái đất; đặc biệt là những vùng biển mà cơn bão Yagi đi qua đầu tháng 9 năm nay.
Chỉ có thể thấy sức mạnh của con sóng khi nó đập vào bờ đá, văng ra nhiều mảnh miếng.
Bắt đầu từ sóng biển, Tường Biển là diễn giải nghệ thuật của Văn Ngọc về sức mạnh của thiên nhiên khi chứng kiến các hình thái khác nhau của con sóng trong khoảnh khắc gặp vật cản. Ở tầng nhìn sâu hơn, Tường Biển là cảm hứng suy tư về bản chất hệ thống bờ kè, cấu trúc các công trình “phòng thủ bờ biển”, hàng rào bảo vệ tính mạng, tài sản, văn hóa, kiến trúc, nơi cư ngụ của con người khỏi những tác động không ngừng nghỉ của tự nhiên.
BÀI LIÊN QUAN
Tác phẩm “tối giản” cất lời thay nghệ sĩ kiệm lời
Không còn những chất liệu làm liên tưởng tính bản địa như những gì chúng ta từng biết về Văn Ngọc. Tường Biển là một màu bê tông xám rộng hơn ngàn mét vuông, không có điểm bắt đầu, cũng không có điểm kết thúc. Người xem có thể bắt đầu với Tường Biển từ bất kỳ góc nào. Bởi mỗi tác phẩm đa chất liệu, cả các hình khối xếp đặt, trọn không gian trưng bày, đều mang tên Tường Biển.
Giữa những vụn vỡ tường trần, xi măng, xà bần, cùng các tác phẩm trắng bạc xám, đồng nhất về chủng loại vật liệu và gam màu, Tường Biển “phơi bày” không trang hoàng con người nghệ sĩ, cũng là lối “kể chuyện” chỉ riêng ở Văn Ngọc: mạnh mẽ, tươi mới, nguyên bản, không gọt giũa, không pha trộn, và… xuất phát từ cuộc sống.
Không gian phủ một màu trắng xám của những vật liệu nặng từ tường tràn xuống sàn. Vật chất nặng nhưng không câm lặng. Những khối bê tông vuông, dài, xiên như những bờ đê chắn sóng, như dư chấn sau cơn bão. Những bức tranh khổ lớn 30 – 40 kg dựng đứng như vách chắn. Những bức tranh nhỏ vụn vỡ như lớp sóng biển dội vào và vỡ tung trên bề mặt bê tông tường, để lại những vật thể bị bỏ rơi, rác thải, tàn tích, sinh vật biển. Những mảng tường trắng dường như len vào trong tranh. Những hình nhân như dợm bước ra, lẫn vào tường trắng. Những hình học trừu tượng, khung xương thùng hộp trôi nổi trong không gian rộng lớn, mịt mù. Và, bù lông, mảnh kính như những đốm sáng lấp loáng trên mặt biển khi nắng lên.
Bỏ lối suy nghĩ hiển nhiên về “ánh sáng trưng bày” nghệ thuật, tôn trọng sự tiếp giáp mập mờ của ánh sáng trời với đèn neon và huỳnh quang; cộng hưởng muôn vạn hình mảnh tối giản vỡ bung từ những con sóng bạc trắng, mang theo vật thể khi va đập vào bê tông; Tường Biển hiện diện như một tác phẩm “sắp đặt lồng trong sắp đặt”. Tranh có bề mặt sắp đặt. Tường sắp đặt tranh. Không gian là một khối sắp đặt từ sàn lên tường. Đậm đặc tính đương đại.
Và rồi, trong khung cảnh thô ráp, mơ hồ, giữa những mảnh vụn chỏng chơ rơi vãi, giữa những khối hình nặng trịch như chứng nhân của biến cố, lịch sử, thì các mảng gương lắp ghép trong bố cục chung lại phản ảnh sống động đời sống hiện hữu. Các mảnh gương hình học khắc họa sự tương tác đầy biến động giữa những gì con người tạo ra với những tác động từ thế giới tự nhiên, đồng thời mời gọi người xem khám phá sâu hơn vào tác phẩm, vào chính mình và xung quanh. Khán giả từ người xem thụ động trở thành đối tượng chủ động tương tác: tự suy ngẫm, tự đặt câu hỏi, tự tìm kiếm câu trả lời.
Xem thêm
• Triển lãm Polar Voids: Hố Phân Cực
• Triển lãm Gucci Visions ở Bangkok: Hành trình trăm năm lịch sử thời trang
• Bất ngờ với triển lãm thời trang xa xỉ bằng nguyên liệu bánh
Không gian lập thể, suy tư trừu tượng
Ở trong Tường Biển, ta có thể cảm nhật rõ rệt sự tiết chế và cô đọng đến mức cùng cực của Văn Ngọc, không chỉ ở phần vật liệu, tông màu, mà cả phần hình. Những đường nét gần như không còn gợi hình, mà trở thành những hình khối mơ hồ, hay những đường kỷ hà vô thức, vu vơ. Ngay cả hình nhân cũng là những nét sổ thẳng, góc mặt ngây ngô…
Rõ ràng là Văn Ngọc không theo trường phái lập thể. Từng bề mặt Tường Biển không lập thể chút nào. Nhưng nếu nhìn cả ngàn mét vuông Tường Biển thì rất dễ liên tưởng đến một tác phẩm lập thể khổng lồ. Không gian xếp đặt lập thể, chắc chỉ Văn Ngọc mới có cái tài tình này.
Vậy nên, Tường Biển gợi nhiều suy tư trừu tượng. Sự trừu tượng không phải trên bề mặt mà trong không gian. Cái trạng thái không gian mà tác giả tạo ra làm người ta ngơ ngác. Cái cảm vật liệu và để chúng nguyên bản cất lời của ông thật đặc biệt. Không biết nên gọi ông là kiến trúc sư, người xếp đặt, điêu khắc gia, hay họa sĩ… Nhưng có một điều chắc chắn rằng: một nghệ sĩ phải trải qua lao động như thế nào, mới có thể làm các chất liệu tương tác nhuần nhuyễn một cách tinh mới đến vậy.
Văn Ngọc rất quan trọng vật liệu; hay nói đúng hơn là ông quan trọng cái việc tạo ra bề mặt giàu mỹ cảm lẫn xúc cảm: “Cái đẹp không nhất định phải có hình hài, hình tượng, hình thù cụ thể. Cái đẹp có thể chỉ là bề mặt của chất liệu tương tác với nhau. Bề mặt là “chất tiếp xúc” đầu tiên với thị giác người xem. Có thể chưa hiểu gì, chưa biết họa sĩ muốn nói gì, tác phẩm truyền đạt gì, nhưng có thể tác động cảm giác và kích thích trí tưởng tượng, đặt câu hỏi”. Điều này có thể trả lời cho câu hỏi “có ý nghĩa gì?” với những người tham quan Tường Biển. Nghệ thuật đôi khi không ý nghĩa mà lại ý nghĩa. Ý nghĩa truyền cảm.
Truyền cảm là tính đại chúng của Tường Biển. Bởi câu chuyện của nó là một phần “sự sống” có ý thức không thuộc về một quốc gia, khu vực, vùng miền nào.
Một lần nữa, với quan điểm (mà ông luôn không chịu nhận là “tuyên ngôn nghệ thuật Văn Ngọc”): “Nghệ thuật không giải thích. Tôi làm nghệ thuật bắt đầu từ những cảm giác của tôi về cuộc sống”, Văn Ngọc tiếp tục khơi gợi người xem những luồng ý niệm đa chiều về “tự do thẩm mỹ” song song thách thức người xem suy ngẫm về vai trò của con người trong mối liên hệ sâu sắc với biển.
Về họa sĩ Văn Ngọc
Văn Ngọc sinh 1959 tại Phú Thọ, Việt Nam. Lớn lên theo học lớp Trung cấp Mỹ thuật tỉnh Phú Thọ. Anh vào bộ đội năm 1983 (chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam). Sau khi xuất ngũ, theo học Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1986 – 1992). Năm 1993, từ miền Bắc, Văn Ngọc cùng vợ chuyển vào Vũng Tàu định cư.
Văn Ngọc sáng tác trên mặt phẳng 2 chiều, 3 chiều, tổ chức không gian “đa chiều”. Phần lớn những tác phẩm từ hội họa, điêu khắc, sắp đặt… đều thực hiện trên nền chất liệu nguyên sơ cũ kỹ, thô mộc, thể hiện một câu chuyện đã qua về vật chất, về con người, về thời gian và ước vọng…
Nhóm thực hiện